SpStinet - vwpChiTiet

 

Thuốc mới trị bệnh răng miệng

Là kết quả từ đề tài "Nghiên cứu điều chế gel in situ chứa clorhexidin gluconat để điều trị bệnh viêm nha chu", do Trung tâm Khoa học và Công nghệ Dược Sài Gòn chủ trì. Sản phẩm mới, dễ sử dụng, thân thiện với bệnh nhân, nâng cao hiệu quả điều trị bệnh viêm nha chu và các bệnh răng miệng khác.

TS. Huỳnh Trúc Thanh Ngọc (chủ nhiệm đề tài) cho biết, nha chu và sâu răng là hai bệnh lý răng miệng có tỷ lệ mắc rất cao và xu hướng ngày càng tăng. Viêm nha chu (gồm viêm nướu và viêm nha chu phá hủy) là do tích tụ mảng bám vi khuẩn trên bề mặt răng và trong túi nha chu.

Bệnh nha chu thường được điều trị bằng các thủ thuật như cạo vôi răng, xử lý mặt gốc răng, ghép nướu kết hợp với các kháng sinh đường uống,… Thủ thuật thì dễ gây đau cho người bệnh, còn sử dụng kháng sinh lại có nhiều tác dụng phụ, hiệu quả điều trị không cao. Vì vậy, phương pháp điều trị tại chỗ, đưa thuốc trực tiếp vào túi nha chu viêm, luôn được ưu tiên vì đơn giản, tiện dụng, ít tốn kém nhưng cho hiệu quả cao, hạn chế được các tác dụng phụ không mong muốn.

Clorhexidin (CHX) là một chất kháng khuẩn điển hình, phổ rộng và an toàn, được nghiên cứu ứng dụng nhiều nhất. Các dạng gel truyền thống chứa 0,5-2% CHX được bôi trên bề mặt nướu răng bị viêm mang lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, dạng gel truyền thống, cũng như dạng dung dịch súc miệng tạo màng mỏng trên nướu đều có các nhược điểm là không đi sâu được vào trong túi nha chu, thời gian tồn lưu ngắn, nhanh chóng bị các cử động khoang miệng và dịch nước bọt thay thế, loại bỏ, khiến phải sử dụng nhiều lần, gây bất tiện cho bệnh nhân.

Do vậy, dạng bào chế mới phải khắc phục được các nhược điểm nêu trên và phải phát huy được khả năng trị liệu cao của CHX. Hệ thống tạo gel tại vị trí tác động (in situ-forming gel, gọi tắt là gel in situ) là một lựa chọn phù hợp, đáp ứng yêu cầu này.

Trong đề tài này (được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM nghiệm thu năm 2019), nhóm nghiên cứu đã xây dựng công thức gel in situ chứa 0,5% CHX, tạo gel nhanh chóng ở nhiệt độ 300C. Gel tạo thành trong suốt, đồng nhất, có thể chất tương đương gel đối chiếu Curasept. Công thức này cho khả năng phóng thích CHX cao hơn gel đối chiếu và thể hiện hoạt tính kháng khuẩn trên các chủng vi khuẩn thông thường (như P. aeruginosa, S. aureus, S. faecalis, E. coli,…) cũng như hai chủng viêm nha chu vị thành niên và viêm nha chu mãn (P. gingivalis, A. actinomycetemcomitans). Công thức cũng cho thấy tính ổn định qua 12 tháng theo dõi trong điều kiện đóng tuýp nhôm, có tiềm năng sử dụng trên lâm sàng.

Khi tiến hành đánh giá sự phóng thích in vitro sử dụng mô hình tế bào Franz theo chuyên luận USP, kết quả cho thấy, trong 360 phút, nồng độ CHX trong các dung dịch đều lớn hơn MIC của CHX trên các chủng vi khuẩn thông thường. Riêng đối với chủng vi khuẩn nha chu P. gingivalis A. actinomycetemcomitans, từ 15-360 phút, nồng độ CHX của dung dịch thu được đều lớn hơn MIC của CHX trên chủng này. Các dữ liệu này cho thấy khả năng kháng khuẩn kéo dài của gel đối với các chủng vi khuẩn nghiên cứu.

Qua rà soát các thông số của quy trình điều chế, khảo sát từ các cỡ lô (250g, 1.000g, 2.000g), nhóm tác giả đã xây dựng được quy trình điều chế cho sản phẩm đạt các yêu cầu về nhiệt độ chuyển gel, độ nhớt, định lượng, giới hạn nhiễm khuẩn,… có tính ổn định và lặp lại. Quá trình hút chân không giúp thu được thành phẩm không bọt và rút ngắn thời gian điều chế.

Theo TS. Huỳnh Trúc Thanh Ngọc, môi trường răng miệng vốn có các đặc thù riêng, cần có các dạng bào chế phù hợp, nhưng hiện nay các chế phẩm chuyên biệt dùng cho nha khoa rất ít và còn nhiều nhược điểm. Vì vậy, thành công này tạo ra dạng bào chế tiên tiến, dễ sử dụng, thân thiện với bệnh nhân trong điều trị.

Việc nghiên cứu trên công thức, xây dựng quy trình điều chế, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, theo dõi độ ổn định chế phẩm và khảo sát nâng dần cỡ lô từ nhỏ đến 2.000g (400 tuýp) tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao sản xuất ở quy mô công nghiệp. Dạng bào chế in situ là dạng bào chế mới, được thiết kế đặc hiệu, giúp kiểm soát sự phân phối và phóng thích thuốc tại nơi tác động, giúp thuốc đi sâu vào túi nha chu và tăng thời gian lưu, nâng cao hiệu quả điều trị bệnh.

Quy trình sản xuất có thể chuyển giao và triển khai dễ dàng tại các xí nghiệp dược phẩm tại TP.HCM cũng như trên cả nước, góp phần cung cấp cho thị trường chế phẩm chứa clorhexidin với chi phí hợp lý. Hiện nay, các công ty như Danapha, Mediplantex đã có quan tâm và sẵn sàng tiếp nhận chuyển giao kết quả của đề tài này để triển khai các bước ứng dụng vào sản xuất.

Vân Nguyễn (CESTI)

Các tin khác:

  • 10 mẫu tin
  • 50 mẫu tin
  • 100 mẫu tin
  • Tất cả