Sử dụng dịch chiết tôm thủy phân trong thức ăn heo thịt
Lam Vân
18/07/2018
KH&CN trong nước
Nghiên cứu do nhóm tác giả Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Thị Tha (Đại học Nông lâm TP.HCM) thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của dịch chiết đầu tôm thủy phân (SSE) khi thay cho bột cá dùng làm nguồn cung protein trong thức ăn heo thịt.
Hiện nay, chi phí thức ăn chiếm khoảng 70% giá thành sản xuất thịt và phụ thuộc rất lớn vào giá nhập khẩu các nguyên liệu cung đạm, vì giá trị các nguyên liệu này khá cao. Trong khi đó, Việt Nam sản xuất không đủ các nguyên liệu cung đạm như khô dầu đậu nành và bột cá cho ngành chăn nuôi. Vì vậy, việc tận dụng các phụ phẩm chế biến nhằm giảm giá thành chăn nuôi đang là xu hướng chung, đặc biệt là các phụ phẩm có thể cung cấp chất đạm.
Các thí nghiệm trong nghiên cứu này được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên trên 60 heo cai sữa giai đoạn 60 - 100 ngày tuổi với khối lượng trung bình khoảng 21 kg. Nhóm heo đối chứng (SSE0) sử dụng 3% bột cá và không chứa SSE; 4 nhóm heo thí nghiệm lần lượt thay thế 25%, 50%, 75% và 100% protein của bột cá bằng protein của SSE.
Kết quả cho thấy, SSE đã ảnh hưởng tốt đến khả năng sinh trưởng, lượng thức ăn ăn vào và hiệu quả sử dụng thức ăn cho heo thịt. Mức tăng trưởng cao nhất đạt 780,9g/con/ngày ở nhóm heo thay thế 75% protein SSE. Về hiệu quả sử dụng thức ăn, khi hàm lượng SSE gia tăng thì lượng thức ăn ăn vào của heo cũng có xu hướng gia tăng, cao nhất đạt 2,14kg/con/ngày, cũng ở nhóm heo sử dụng thay thế 75% protein của bột cá bằng protein của SSE. Kết quả này là do mùi vị đặc trưng của SSE làm tăng lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày, đồng thời SSE đã được thủy phân thành các đoạn peptid hoặc axit amin khá cân đối giúp heo ăn nhiều và tiêu hóa hấp thu tốt nên tăng trưởng nhanh, dẫn đến hiệu quả sử dụng thức ăn cao hơn.
Như vậy, SSE hoàn toàn có thể thay thế bột cá trong khẩu phần của thức ăn heo nuôi thịt. Sử dụng SSE làm tăng lợi nhuận nuôi heo từ 13,73% - 20,05%. Có thể sử dụng SSE ở mức từ 2,25% - 6,75% trong khẩu phần thức ăn heo thịt.
Nghiên cứu đã được công bố trên Tạp chí KHKT Nông lâm nghiệp, số 5-2017.