Đề tài do PGS.TS Hoàng Văn Tiệu (Viện Chăn nuôi), các tác giả Phùng Đức Tiến, Trần Thị Cương, Lê Thị Nga, Vũ Thị Thảo, Nguyễn Ngọc Dụng, Nguyễn Thị Lành, Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Đức Hồng, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Liên Hương (Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương) thực hiện nghiên cứu chọn lọc nhằm tạo một số dòng ngan mới có giá trị kinh tế từ vật liệu là các giống ngan R51, R71, ngan Siêu nặng…
Nghiên cứu tiến hành với vật liệu là ngan V51 và V52 (từ vật liệu ngan R51); ngan V71 và V72 (từ vật liệu là ngan R71); ngan VS1và VS2 (từ vật liệu ngan Siêu nặng).
Theo đó, tỷ lệ nuôi sống của ngan V5, V7 và VS ở giai đoạn ngan con 0-8 tuần tuổi là 97,22-99,14%. Giai đoạn 9-24 tuần tuổi tỷ lệ nuôi sống đạt từ 97,67-100%. Khối lượng ngan dòng trống V51, V71, VS1 chọn theo hướng khối lượng cao, ở 8 tuần tuổi sau khi chọn lọc: ngan V51 con trống là 3152,78 g tăng 222,78 g; con mái 2187,36 g tăng 130,68 g. Ngan V71 con trống 3408,33 g tăng 266,66 g; con mái 2289,89 g tăng 113,89 g. Ngan VS1 con trống 3595,56 g tăng 428,73 g; con mái 2351,67 g tăng 132,61 g. Năng suất trứng ngan dòng mái V52, V72, VS2 chọn lọc theo hướng năng suất trứng cao, sau khi chọn lọc: ngan V52 58,32 quả, đã tăng lên 9,43 quả, tương ứng 19%; ngan V72 58,29 quả, đã tăng lên 10,78 quả, tương ứng 22%; ngan VS2 56,36 quả, đã tăng lên 7,13 quả, tương ứng 7,13%.