Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc rốn trẻ ở các bà mẹ: kết quả nghiên cứu dịch tễ học tại huyện Cần Giờ, TP.HCM
09/01/2008
KH&CN trong nước
KH&CN trong nước
Đề tài do tác giả Huỳnh Thị Duy Hương (Bộ môn Nhi - ĐH Y Dược TP.HCM) thực hiện nhằm xác định liên quan giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc rốn trẻ sơ sinh của các bà mẹ; thăm dò những nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành chăm sóc rốn trẻ sơ sinh (CSRTSS) của các bà mẹ.
Tại các nước đang phát triển, uốn ván rốn (UVR) và nhiễm khuẩn rốn (NKR) là những nguyên nhân chính đưa đến tử vong ở trẻ sơ sinh. Một trong những yếu tố làm gia tăng tần suất UVR và NKR chính là sự tồn tại những hủ tục nuôi con, những thói quen tập quán có hại gây mất vệ sinh trong việc chăm sóc rốn trẻ sơ sinh ở cộng đồng dân cư.
Nghiên cứu tiến hành với các bà mẹ đang nuôi con dưới 4 tháng tuổi, mẹ cư trú tại Cần Giờ từ 6 tháng trở lên, trẻ chưa từng được chẩn đoán NKR từ nhân viên y tế… nhằm tập trung vào yếu tố làm tăng tần suất UVR và NKR nói trên.
Kết quả nghiên cứu định lượng với 265 bà mẹ cho thấy, về sự liên quan giữa các yếu tố kiến thức, thái độ, thực hành CSRTSS của các bà mẹ tại huyện Cần Giờ, kiến thức và thực hành chịu ảnh hưởng tốt của yếu tố kinh tế. Liên quan giữa thái độ và thực hành cho thấy chính thái độ hợp tác đã tác động vào thực hành và chính kinh tế tốt đã tác động tích cực vào việc thực hành đúng.
Kết quả nghiên cứu định tính với 50 người gồm 20 nhân viên y tế và 30 bà mẹ cho thấy có 3 nhóm nguyên nhân ảnh hưởng đến thực hành CSRTSS chưa đúng của bà mẹ tại Cần Giờ, đó là:
-Liên quan đến nhân viên y tế: bà mẹ làm theo những gì học được từ nhân viên y tế, nhân viên y tế là chuẩn mực cho các bà mẹ bắt chước thực hành CSRTSS;
-Liên quan đến các người thân trong gia đình: CSRTSS là làm theo truyền thống mẹ dạy con nghe từ bao đời nay;
-Liên quan đến bà mẹ: để bảo vệ trẻ nên cần băng rốn, rửa rốn, bôi rốn. Do hoang mang lo lắng khi phải chăm sóc con, bà mẹ tự CSRTSS theo suy nghĩ của mình bất kể đúng sai.
LV (nguồn: Tạp Chí Y học thực hành, số 11/2007)