SpStinet - vwpChiTiet

 

Áp dụng mã số mã vạch trong chuỗi cung ứng giúp giảm 50% đầu tư nguyên liệu

Đó là khẳng định của ông Bùi Hữu Đạo - Phó Chủ tịch Hội Mã số mã vạch Việt Nam tại Hội thảo “Áp dụng mã số mã vạch trong truy xuất nguồn gốc và chống hàng giả” vừa diễn ra tại Hà Nội.

Sáng ngày 4/8, tại Hà Nội, Hội Mã số mã vạch Việt Nam phối hợp với Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng và Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo “Áp dụng mã số mã vạch trong truy xuất nguồn gốc và chống hàng giả”.

Ông Phó Đức Sơn, Chủ tịch Hội Mã số mã vạch Việt Nam chia sẻ tại Hội thảo.

Theo ông Phó Đức Sơn, Chủ tịch Hội mã số mã vạch Việt Nam, hiện nay, khi nạn hàng giả, hàng nhái, hàng lưu thông không rõ nguồn gốc xuất xứ, sản phẩm chứa chất cấm, độc hại vẫn đang tồn tại, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tài chính của người tiêu dùng, làm giảm niềm tin của người tiêu dùng đến tính minh bạch của thị trường hàng hóa, giảm uy tín của các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính,… truy xuất nguồn gốc (TXNG) trở thành vấn đề quan tâm chung của toàn cầu.

TXNG có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng, phát triển kinh tế xã hội nói chung. TXNG là cơ hội để doanh nghiệp thâm nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời là biện pháp tích cực trong công tác chống hàng giả, nâng cao vị thế của sản phẩm, hàng hóa.

Thông qua hệ thống TXNG, người tiêu dùng có khả năng tiếp cận dễ dàng các nguồn thông tin liên quan đến sản phẩm, hàng hóa qua các thiết bị di động (smart phone). TXNG là công cụ để các cơ quan quản lý kiểm soát thông tin sản phẩm sản xuất, lưu thông trên thị trường, giúp xác định chính xác, kịp thời nguyên nhân khi sự cố về chất lượng xảy ra, cũng như vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan. Vì vậy TXNG vừa là nhu cầu, vừa là trách nhiệm của các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các tổ chức, cá nhân và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan.

Thực tế, hoạt động TXNG và áp dụng tem TXNG tại Việt Nam đang tồn tại một số hạn chế, bất cập, cụ thể: TXNG mới chỉ tập trung áp dụng ở một số sản phẩm và một số địa phương, thị trường lớn: Nhiều hệ thống TXNG hiện nay vẫn mang tính khép kín, không có khả năng mở để các bên tham gia hệ thống TXNG này có thể tham gia với các hệ thống TXNG khác, do thường sử dụng các mã phân định có cấu trúc tự đặt, chỉ có giá trị phân định trong phạm vi nội bộ, mà không sử dụng các mã phân định đơn nhất toàn cầu. Việc tự đặt các mã phân định (sản phẩm, địa điểm, các bên tham gia) không đơn nhất, có thể xảy ra trường hợp trùng mã giữa các hệ thống TXNG.

Cũng theo ông Sơn, TXNG đòi hỏi tính chuẩn hóa cao, yêu cầu các bên tham gia TXNG cần thống nhất dùng chuẩn chung. Tuy nhiên, tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún gây hạn chế cho việc thống nhất giữa các bên tham gia TXNG. Thói quen và ý thức làm việc không tuân thủ quy trình, ngại ghi chép cũng là yếu tố hạn chế thành công của các doanh nghiệp Việt Nam khi xây dựng hệ thống TXNG.

Khẳng định vai trò của mã số mã vạch trong truy xuất nguồn gốc, ông Bùi Hữu Đạo - Phó Chủ tịch Hội Mã số mã vạch Việt Nam cho hay, đây là công cụ hữu hiệu để nâng cao sự cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, giúp doanh nghiệp dễ dàng quản lý sản phẩm, phân phối hàng hóa trên hệ thống siêu thị, đảm bảo uy tín cho người tiêu dùng. Đồng thời, đây là căn cước để hàng hóa hội nhập thế giới.

Việc áp dụng mã số mã vạch trong chuỗi cung ứng giúp giảm 50% đầu tư nguyên liệu thô, tăng 3,5% về độ chính xác của báo giá, giảm 21% thời gian lưu kho, giảm 42% chi phí phân phối, giảm 35% kiểm kê hàng trong trung tâm phân phối, 32% giảm việc hết hàng, mang lại sự hài lòng cho khách hàng.

Cũng theo ông Đạo, việc ứng dụng mã vạch hiện nay ở nước ta tuy có phát triển, nhưng sự đồng bộ hóa trong kinh doanh, sản xuất ở các doanh nghiệp chưa cao nên chưa sử dụng hết ứng dụng của mã vạch. Việc ứng dụng công nghệ MSMV mới chỉ dừng ở việc cấp mã số doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp in ấn số mã vạch trên sản phẩm, hàng hóa để phục vụ bán hàng, chưa triển khai ứng dụng các loại MSMV trên các đơn vị giao nhận, vận chuyển, trong trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange) và phân định các bên đối tác trong giao dịch sản xuất, kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp ứng dụng công nghệ MSMV chiếm tỷ lệ thấp, số lượng hàng hóa của Việt Nam sử dụng MSMV chưa nhiều.

Việc triển khai ứng dụng rộng rãi MSMV trong lĩnh vực khác như các ngành dịch vụ và văn hóa xã hội... chậm, chưa có nhiều hiệu quả. Thậm chí, do ứng dụng đôi khi tự phát, tản mạn, chưa có sự hướng dẫn về công nghệ và kỹ thuật của cơ quan quản lý nhà nước nên các doanh nghiệp đã nhập phải các thiết bị in đọc và phần mềm MSMV lạc hậu so với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành. Mặt khác, hoạt động MSMV chưa được quản lý thống nhất, việc làm giả MSMV vẫn còn diễn ra dưới các hình thức như: tự ý lấy MSMV của một doanh nghiệp khác để in lên sản phẩm của mình, hay tự nghĩ ra một MSMV và in trên sản phẩm lưu hành trên thị trường...

Theo các chuyên gia, cần sử dụng rộng rãi công nghệ mã vạch trong các lĩnh vực cần thiết của đời sống từ đó tăng số lượng các doanh nghiệp sử dụng mã vạch, giúp tăng tốc độ xử lý hàng hóa và hiệu quả trong kinh doanh. Nghiên cứu và triển khai ứng dụng rộng rãi MSMV trong lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân cũng như các ngành dịch vụ và văn hóa xã hội; Cập nhật liên tục các công nghệ nhận dạng mã vạch; Quản lý thống nhất hệ thống mã vạch giúp hàng hóa được phân loại tốt hơn và xác định chính xác sản phẩm là những đòi hỏi từ thực tiễn.
 

Toàn cảnh Hội thảo. 

Để thúc đẩy ứng dụng công nghệ MSMV, cần nghiên cứu triển khai áp dụng các công nghệ và mã tiêu chuẩn mới mà thế giới đang áp dụng như công nghệ nhận dạng bằng tần số radio trong chuỗi cung ứng toàn cầu; Phổ biến áp dụng mã điện tử sản phẩm phục vụ cho công nghệ RFID; Phổ biến áp dụng các loại mã số và mã vạch mới được tiêu chuẩn hóa và chấp nhận quốc tế. Bên cạnh đó, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam; Cập nhật và hoàn thiện cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp sử dụng mã vạch, bằng tiếng Anh và tiếng Việt.

Hàng loạt biện pháp khả thi cũng cần sớm được triển khai như tham gia mạng Đăng ký thông tin toàn cầu của GS1 - mạng GEPIR Global; Nghiên cứu triển khai thiết lập Catalog điện tử sản phẩm sử dụng mã vạch; Hỗ trợ các doanh nghiệp của Việt Nam chuẩn bị điều kiện đăng ký tham gia các mạng toàn cầu - GR (Global Registry); GDSN (Global Data Synchronization Network); EPC Global. Thúc đẩy và giúp các bộ ngành trong hoạt động ứng dụng MSMV. Đặc biệt, các lĩnh vực như quản lý nhân sự (quản lý công chức, thẻ chứng minh nhân dân...), truy tìm nguồn gốc thực phẩm (bao gồm cả thuỷ sản và rau sạch), trong ngành y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng... rất cần được khuyến khích, tăng cường ứng dụng MSMV.

Ngày 19/1/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 100/QĐ-TTg phê duyệt Đề án triển khai áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc, trong đó đặt ra mục tiêu đến năm 2025 tối thiểu 30% các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sử dụng mã số, mã vạch tại Việt Nam có hệ thống truy xuất nguồn gốc áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế, đảm bảo khả năng tương tác, trao đổi dữ liệu với các hệ thống truy xuất nguồn gốc của doanh nghiệp trong nước và quốc tế.

Liên kết nguồn tin: http://vietq.vn/ap-dung-ma-so-ma-vach-trong-chuoi-cung-ung-giup-giam-50-dau-tu-nguyen-lieu-d177024.html

Nguồn: most.gov.vn

Các tin khác:

  • 10 mẫu tin
  • 50 mẫu tin
  • 100 mẫu tin
  • Tất cả